LƯỢC SỬ CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH HOẰNG ĐỨC
(1888 – 1992)
Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Hoằng Đức, húy Nhật Phú, tự Như Thuận, thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh năm Mậu Tý (1888), tại thôn Nhơn Thạnh, phủ Tân An (nay là xã Nhơn Thạnh Trung, thành phố Tân An, tỉnh Long An).
Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Ân, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thành. Ngài được sanh ra trong gia đình thuộc tầng lớp trung lưu, đạo đức và nhiều đời kính tin Tam Bảo.
Xuất thân trong một gia đình thuần thiện, ảnh hưởng nhân duyên tốt đẹp từ phụ thân, Ngài đã sớm được học chữ Hán và nghề y học Đông phương. Khi song thân quy hướng Phật pháp, Ngài cũng được lĩnh hội những tinh hoa tốt đẹp từ giáo pháp cao quý của Đức Phật. Trong gia đình, Ngài là người con ngoan hiền, hiếu thuận, chuyên tâm học hành và luôn phụ giúp thân phụ kê đơn bốc thuốc cứu người, tận tâm phụng dưỡng cha mẹ già. Thuở thiếu thời, Ngài quyết tâm sống đời thanh đạm trường chay và tự thực hành những thời khóa tu niệm cho riêng mình.
Năm 1935, sau những chuyến ngược xuôi buôn bán miền sông nước, đạo mầu nhuận thấm trong tâm, ý niệm ly trần khởi phát, Ngài liền từ giã quê nhà, lên đường tìm đến chùa Linh Sơn (Cầu Muối – Sài Gòn) để xuất gia học đạo với Hòa thượng Trụ trì Thích Thiện Huệ (hiệu Hồng Tu), từ đó hòa nhập vào nếp sống thiền gia. Do được lĩnh hội tinh hoa Phật pháp từ thuở thiếu thời và ý chí tự lực quyết tâm cao nên Ngài được Bổn sư và các pháp lữ đồng môn khen ngợi.
Năm 1938, hội đủ duyên lành và được Bổn sư cho phép thọ giới Tỳ-kheo tại Đại Giới đàn chùa Hội Phước (Bến Tre), Ngài lên đường ra Bình Định tham học với Hòa thượng Bích Liên, rồi trở về học pháp với Hòa thượng Thích Kiểu Đạo (hiệu Hoằng Khai) ở chùa Hội Tôn (Bến Tre); Hòa thượng Thích Phước Chí ở chùa Thiên Phước (Long An). Sau đó, Ngài trở về chùa Linh Sơn (Sài Gòn) một thời gian dài tham học với Hòa thượng Thích Phước Chí (hiệu Huệ Thông).
Trong thời gian tu học và hoằng dương chánh pháp, Ngài đã trùng tu, kiến tạo rất nhiều tự viện, như: Tổ đình Sắc tứ Hội Long, chùa Hưng Phú, chùa Linh Tâm (Tp. Tân An), chùa Bình An, chùa An Châu chùa Tam Khánh (huyện Châu Thành) và nhiều ngôi chùa khác tại các địa phương thuộc tỉnh Long An.
Với tâm nguyện “truyền đăng tục diệm”, Ngài đã tiếp Tăng độ chúng, nhiều đệ tử, đệ tôn của Ngài đã trở thành những bậc pháp khí đại thừa, tích cực góp phần phụng sự Đạo pháp và Dân tộc, như: Cố Hòa thượng Thích Thiện Thành, Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, Cố Hòa thượng Thích Thiện Nhu, Cố Hòa thượng Thích Thiện Triệu; ngày nay còn có Hòa thượng Thích Minh Thiện (Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Long An) là đệ tôn và cũng là người thị giả năm xưa ảnh hưởng rất nhiều từ sự giáo dưỡng của Cố trưởng lão Hòa thượng. Hòa thượng cũng rất quan tâm đến việc hoằng pháp, nên luôn khuyến khích các đệ tử chú trọng truyền bá chánh tín, mở nhiều buổi thuyết giảng định kỳ vào các ngày sám hối, ngày lễ lớn, tạo nên một phong trào học Phật pháp ngày càng sinh động, thu hút rất nhiều Phật tử xa gần tham dự, gieo duyên với Tam bảo.
Để phát triển Phật pháp, tạo điều kiện tu học, nâng cao Giới – Định – Tuệ cho Tăng Ni, Ngài đã khai mở hơn 13 khóa An cư Kiết hạ tại tổ đình Hội Long. Hàng cư sĩ tại gia theo Ngài thọ giới pháp rất đông, không ít người đã trở thành những Phật tử thuần thành, đóng góp nhiều lợi ích lớn trong lĩnh vực an sinh xã hội.
Trong các pháp môn tu hành, Ngài luôn chuyên tâm nhất ý với các thời khóa đã định, như: trì kinh Kim Cang, niệm Phật, hành trì kệ chú Tỳ ni nhật dụng thiết yếu và trì chú Đại bi, Chuẩn Đề, Ngài cũng thường dùng công năng tu tập để trị bệnh cứu dân. Khi còn khỏe mạnh, Ngài từng đi bộ trên 20 km để đến giới trường tham học Luật Tạng. Lúc tuổi xế chiều, Ngài vẫn thường trau dồi kinh sử, chí thành lắng nghe Phật pháp; dù các thông tin Khoa học xã hội, Ngài cũng tìm hiểu để làm tài liệu ứng dụng trong việc giảng dạy Phật pháp.
Với đức hạnh cao quý, năm 1983, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Long An thành lập, Ngài được cung thỉnh ngôi vị Cố vấn Chứng minh. Đồng thời, Ngài vinh dự được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng của nhiều Đại Giới đàn trong và ngoài tỉnh.
Năm 1988, dù tuổi đã 100, Ngài vẫn tham dự khóa An cư Kiết hạ tại chùa Linh Sơn (quận 1 – Tp.HCM). Năm 1989, Ngài dự khóa An cư tại chùa Giác Sanh (quận 10 – Tp.HCM). Ngài xem việc An cư là quan trọng nên luôn khuyến khích chúng đệ tử, đệ tôn hằng năm phải tìm trú xứ An cư Kiết hạ.
Năm 1992, Trường Cơ bản Phật học Long An (nay là Trường Trung cấp Phật học Long An) thành lập, Ngài đã tích cực hỗ trợ nhiều mặt Phật sự và luôn ân cần nhắc nhở chư Tôn đức trong Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Long An phải quan tâm nhiều hơn đến cơ sở đào tạo giáo dục quan trọng này.
Với tâm cầu học, Ngài trân trọng các thế hệ truyền thừa và luôn khuyến khích Tăng Ni trẻ tinh tấn tu học. Với tâm khiêm cung, kiệm đức, trì luật, Ngài luôn làm bậc mô phạm cho Tăng chúng tu hành.
Ngài đã chủ biên dịch thuật các tác phẩm luật học, như: Luật Trường Hàng, Tỳ Ni Hương Nhũ; công trình điêu khắc mộc bản kinh Pháp Hoa, kinh Địa Tạng, kinh Nhật Tụng và tranh tượng Phật, Bồ tát, v.v. lưu lại cho hậu thế nét đẹp tinh thần bất hủ.
Đến những ngày tháng cuối đời, Ngài vẫn luôn minh mẫn, tứ đại điều hòa cho đến phút xả bỏ huyễn thân. Vào một sáng mùa thu nắng đẹp, Ngài đã an nhiên thị tịch tại Tổ đình Sắc tứ Hội Long (xã Nhơn Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An) lúc 11 giờ 30 phút, ngày 01 tháng 10 năm 1992 (nhằm ngày 06/ 09/ Nhâm Thân), thượng thọ 105 tuổi, 55 năm hạ lạp. Nhục thân Ngài được trà tỳ và tôn trí nơi bảo tháp tại Tổ đình Sắc tứ Hội Long.
Kính tuyên dương công đức của bậc Thiền tăng, một đời vì Đạo pháp-Dân tộc, vì hạnh nguyện lợi tha, Ban Kiến Đàn trân trọng cung thỉnh pháp hiệu của Ngài lập thành tôn hiệu Đại giới đàn Hoằng Đức để cho hậu thế noi gương, đăng đàn thọ giới pháp, tiến tu đạo nghiệp.